Bạn đang ở đây

Bánh Trung Thu xưa và nay

Người Việt vốn coi trọng truyền thống ẩm thực, do đó thường dành một món ăn đặc thù cho mỗi dịp Tết nhất hội hè. Ngày nay, nhiều cổ tục đã biến mất, nhưng ăn bánh Trung Thu vào ngày rằm tháng tám vẫn thịnh hành và là nét đẹp văn hóa đáng quý.

Theo cổ tục, người Việt trong quá khứ đã từng ăn bánh chưng, bánh dầy vào Tết Nguyên Đán; ăn bánh trôi, bánh chay vào Tết Hàn Thực; ăn rượu nếp, bánh tro, bánh ú vào Tết Đoan Ngọ; ăn heo quay cúng ngày rằm tháng bảy; ăn bánh dẻo, bánh nướng vào Tết Trung Thu; uống rượu cúc vào tiết Trùng Cửu. Ngày nay, nhiều cổ tục đã biến mất, nhưng ăn bánh và đi chơi vào ngày Trung Thu vẫn thịnh hành.

Bánh Trung Thu ở ta và ở Trung Hoa

Ở Việt Nam từ xưa đến nay, bánh Trung Thu gồm hai hình thức: Dẻo và nướng. Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường và tinh dầu bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ hình tròn, nhân làm bằng hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn - là loại bánh Trung Thu mang sắc thái Việt Nam hơn bánh nướng.

 

Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam. Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa "đoàn viên gia đình" và nhất là tình yêu khắng khít vợ chồng: "Đêm khuya chung bóng trăng tròn sánh vai" (Truyện Kiều).

 

Bánh dẻo truyền thống được làm bằng bột nếp, nhân đậu xanh trứng muối.
 

Bánh nướng Trung Thu ngày nay vẫn mang nhiều phong vị truyền thống của người Việt gốc Hoa. Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông. Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn với trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh, khoai môn, hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt muối, có mùi vani hay sầu riêng, hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như giăm-bông, thịt quay, yến sào, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao...

 

Một điểm cần biết là những chiếc bánh Trung Thu nướng mà chúng ta quen ăn ở Việt Nam (hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại) chính là thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với những đặc điểm sau: Vỏ bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn về nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú.

 

Bánh nướng Trung Thu ngày nay vẫn mang phong vị cổ truyền của người Việt gốc Hoa.

 

Về mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vỏ khô cứng mà phải chờ ba ngày sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra làm bánh ăn mềm và thơm ngon. Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một tháng nhưng điều kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và làm sình bụng.

Trung Thu là Tết đoàn viên

Tết Trung Thu là cái Tết lớn thứ ba trong năm. Về thời điểm, nó tương đương với dịp Tạ Ơn của mùa thu gặt hái trong văn hóa Tây phương, nhưng trên ý nghĩa của triết lý đạo giáo Á Đông, qua hành động thưởng thức vầng trăng thu lớn, vàng và đẹp trong một thời tiết mát mẻ lý tưởng, con người đã cảm thấy mình đã hài hòa một cách tuyệt vời với đất trời vũ trụ.

 

Từ hình ảnh tròn của vầng trăng, con người thuở xưa đã ký thác tư tưởng của mình thành một biểu tượng: Đó là chiếc bánh tròn mà người ta gọi nó là "nguyệt bính" hay "bánh vầng trăng". Ngắm trăng thu mà không ăn nguyệt bính sẽ là vô nghĩa.

 

Ngắm trăng thu mà không ăn nguyệt bính sẽ là vô nghĩa.

 

Trên mặt ngôn ngữ, người ta lại liên kết cái ý niệm "tròn" (viên) của trăng với cảnh quây quần "đoàn viên" của con người quy tụ ăn mừng để thưởng trăng. Rồi từ ý niệm này, lại nảy sinh ra huyền thoại ông già dưới trăng mang tên "Nguyệt lão" chắp mối tơ hồng để trai gái kết hôn.

 

Vầng trăng dịu dàng tượng trưng cho nguyên lý âm, chủ về phụ nữ, nên vào đêm rằm Trung Thu, phụ nữ Trung Hoa thường bầy tiệc cúng trăng với hương đèn và mâm ngũ quả cùng nguyệt bính, đặc biệt nếu cúng dưa hấu thì không nên bổ đôi mà phải lấy dao tỉa thành hoa sen (vì kiêng cữ ý niệm "phân qua" tức là chia rẽ phân ly).

 

Trung Thu còn là dịp để đoàn tụ gia đình, cùng ngắm trăng, thưởng trà và phá cỗ.

 

Tục này du nhập sang phía Bắc Việt Nam trở thành tục bày cỗ thưởng nguyệt với bánh mặt trăng và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả trong mùa, đặc biệt phụ nữ trong nhà có dịp trổ tài phụ xảo nữ công bằng cách gọt đu đủ thành các thứ hoa nhuộm phẩm sặc sỡ hay nặn bột thành những con giống như tôm, cua, cá.

 

Bánh Trung Thu - từ huyền thoại đến biểu tượng

 

Một điểm đặc biệt là trên nắp các hộp bánh Trung Thu bán ở thị trường thường vẽ những bức hoạ như Hằng Nga - Ngọc Thố - Quảng Hàn cung hay Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện để thể hiện những huyền thoại liên quan đến mặt trăng.

Huyền thoại thứ nhất là nhân vật Hằng Nga (còn gọi Thường Nga), vợ của chàng Hậu Nghệ, người có tài bắn cung đã bắn hạ tám vừng mặt trời cho thế gian khỏi nóng như thiêu đốt mà chỉ còn chừa lại một vừng cho con người có ánh sáng ban ngày mà thôi.

 

Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu ban cho viên thuốc trường sinh để sống lâu bảo vệ thế gian. Nhưng Hằng Nga lại lén ăn cắp thuốc này và bay tuốt lên mặt trăng. Trên mặt trăng, Hằng Nga làm bạn với một con thỏ ngọc đứng dưới gốc cây. Không khí trên mặt trăng vốn lạnh buốt nên do đó được gọi là Quảng Hàn cung. Hằng Nga bị lạnh nên phải ho làm viên thuốc trường sinh văng ra khỏi họng. Nàng bèn nghĩ nên lấy viên thuốc này giao cho con thỏ giã nhỏ ra thành bột mà rắc xuống thế gian mà để thiên hạ cũng được trường sinh.

 

Hằng Nga.

 

Huyền thoại thứ hai là về vua Đường Minh Hoàng là người rất muốn luyện phép tu tiên. Khởi nguyên của tục lệ treo đèn và bầy cỗ vào đêm rằm tháng tám bắt đầu vào ngày sinh nhật ông, khi đó Đường Minh Hoàng loan truyền cho thiên hạ khắp nơi phải làm thế để mừng cho ông. Chính vào đêm rằm này, ông ra lệnh cho viên đạo sĩ La Công Viễn làm phép thế nào để ông du hồn lên chơi trên mặt trăng.

Truyền thuyết kể rằng đạo sĩ này đã cho ông uống một liều thuốc gì đó rồi nói vua kê đầu vào một cái gối đặc biệt trong một khung cảnh mờ ảo có đốt hương trầm phảng phất. Quả nhiên, nhà vua trong chốc lát thấy hồn mình nhẹ nhàng bay bổng lên vùng Nguyệt điện rồi chứng kiến một bày tiên nữ lả lướt nhảy múa ca hát trong những bộ xiêm y theo bảy sắc của cầu vồng.

 

Lồng đèn tháng tám.

 

Lúc tỉnh dậy, nhà vua bèn nhớ lại bắt chước mà sáng tác ra khúc nhạc "Nghê thường vũ y khúc" (nghê là cầu vồng, thường là xiêm váy). Khúc nhạc này rất nổi tiếng và lưu dấu trong thi văn hậu thế và ngộ thay, được giới nghệ thuật ca vũ Trung Hoa đời sau suy tôn là Thánh tổ của nghề nghiệp của họ. (Lấy con mắt hiện đại mà xét, rõ ràng là đạo sĩ La Công Viễn đã cho vua Đường Minh Hoàng dùng tối đa những thứ ma tuý dược qua rượu uống và thuốc sinh ảo giác qua sự ngửi hít khói trầm hương.)

Bánh Trung Thu qua lịch sử

Chưa có tài liệu nào nói về chiếc bánh mặt trăng lúc khởi thủy. Tuy nhiên nếu dựa vào bài Chiêu Hồn ca của Tống Ngọc vào thế kỷ thứ III TCN viết để khóc thầy mình là Khuất Nguyên thì chiếc bánh chiên bột gạo luyện mật nhân thịt được kê ra trong danh sách thực phẩm để cúng cũng chưa có thể là chiếc bánh mặt trăng.

Mãi về sau, vào khoảng thế kỷ thứ VI, trong một tài liệu thực phổ, chiếc bánh này được tả là làm bằng bột mì sợi lên men, gần giống như bánh Trung Thu bây giờ, nhưng có gì chắc lắm.

 

Trung Thu còn là Tết Thiếu Nhi vì các em được thỏa thích vui chơi, rước đèn ông trăng.

 

Nếu dựa vào thi văn thì vào thời Bắc Tống (960-1126), thi hào Tô Đông Pha đã từng nhắc đến "chiếc bánh nhỏ tròn như mặt trăng được ăn nhấm nháp, vừa giòn vừa xốp, nhân bằng đường và thịt ngọt". Như vậy, ta có thể kết luận chiếc bánh Trung Thu đầu tiên xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ  VI và thế kỷ XI.

Dù xuất xứ ở đâu thì mỗi lần rằm tháng tám về, mỗi khi đoàn viên bên gia đình để phá cỗ Trung Thu, ta vẫn không khỏi bồi hồi nhớ về câu chuyện chị Hằng, chú Cuội...

 

C.M. tổng hợp

people like INLOOK.VN fanpage